Nhận định Lê_Thánh_Tông

Sách Đại Việt sử ký toàn thư có chép lại bình luận của một số sử thần đời Lê về Lê Thánh Tông, đa phần nhận xét rất tích cực:

Vua sáng lập chế độ văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường cũng không thể hơn được. Nhưng công trình thổ mộc vượt quá quy mô xưa, tình nghĩa anh em thiếu hẳn lòng nhân ái. Đó là chỗ kém vậy.

— Đại Việt sử ký toàn thư[10]

Vua tư triều cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài, đại lược, võ giỏi văn hay mà cái học của Thánh hiền lại đặc biệt siêng năng, tay không lúc nào rời quyển sách. Các tập kinh, sử, các lịch, toán, những việc Thánh thần, không có gì không bao quát tinh thông. Văn thơ thì vượt trên cả những văn mẫu của các văn thần. Cùng với bọn Nguyễn Trực, Vũ Vĩnh Mô, Thân Nhân Trung, Quách Đình Bảo, Đỗ Nhuận, Đào Cừ, Đàm Văn Lễ biên soạn bộ Thiên Nam dư hạ, tự đặt hiệu là "Thiên Nam động chủ", "Đạo Am chủ nhân". Lại sùng Nho thuật, nâng đỡ nhân tài. Khoa thi chọn kẻ sĩ không phải chỉ có khóa, lệ định 3 năm một lần thi lớn là bắt đầu từ xưa. Người hiền tài được chọn nhiều hơn cả đời vua. Văn võ đều dùng, tùy theo sở trường của từng người. Vì thế, có thể sửa dựng chính sự, chế tác lễ nhạc, hiệu lệnh văn chương rõ ràng, có thể cho người đời sau noi theo...

Trước đây, khi vua còn làm phiên vương, vẫn tự giấu tài; đến khi nước gặp đại biến, các quan lật đật đón lập lên. Khi vào nối đại thống, vua biết bọn Đồn, Ban đã bị giết, nhưng Lạng Sơn thân vương lại bị hại, ngài bùi ngùi không vui, cò lòng thương xót, trách là cốt nhục tương tàn để cho người ngoài lợi dụng, anh em một nhà đều bị tai họa.

Ban đầu, vua không lấy việc được làm vua là vui, cũng không vì những biến cố lúc đó mà lo. Cho nên, hào kiệt bấy giờ, ai cũng suy tôn, kính phục. Các tướng lĩnh rông rỡ kiêu ngạo lần lượt bị giết, vì thế, lấy tội lỗi người trước làm gương, trong ngoài đều nghiêm cẩn. Đặt hai vệ Cẩm y, Kim ngô, các ty Thần vũ, Điện tiền..., lấy người thân làm chức chỉ huy, dùng họ nhà mẹ làm việc duyệt xét. Lại chọn bề tôi tin cẩn để làm nanh vuốt tay chân, như bọn Nguyễn Phục, Hoàng Nhân Thiêm, Đỗ Hùng, Vũ Lân đều hầu quanh tả hữu. Vua chỉ rũ áo khoanh tay mà trong nước yên ổn.

Vua lại nghĩ giặc Chiêm đời đời vẫn là mối lo của ta, ngày nay không diệt đi, sau này làm gì được nó. Thế là phía nam thì đánh Trà Toàn mà lấy lại bờ cõi nó, phía tây thì đánh Nhã Lan mà quét sạch sào huyệt nó. Đánh Sơn Man mà uy thanh vang dội phương Bắc, đánh Bồn Man mà đất đai mở rộng phía tây. Quy mô xếp đặt, công nghiệp trung hưng, có thể sánh vai với Thiếu Khang nhà Hạ, nối gót được Tuyên Vương nhà Chu, mà khinh hẳn Quang Vũ nhà Hán, Hiến Tông nhà Đường là hạng dưới vậy.

Tiếc rằng vua nhiều phi tần quá, nên mắc bệnh nặng. Trường Lạc Hoàng hậu bị giam ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được đến hầu bệnh, bèn ngầm giấu thuốc độc trong tay mà sờ vào chỗ lở, bệnh vua do vậy mới lại thêm nặng.

— Vũ Quỳnh[193]

Thánh Tông đương lúc trong nhà có hoạn nạn, mọi người cùng suy tôn lên giữ ngôi cao, sửa làm trăm việc. Lập phủ vệ, định quân chế, chấn hưng lễ nhạc, chọn dùng người liêm khiết tài năng, đánh dẹp Bắc phương, mở mang bờ cõi. Trà Toàn chịu bắt, Lão Qua tan vỡ, nước Lưu Cầu xe thây, giặc Cầm Công chạy chết, bốn rợ thần phục, tám cõi hướng theo, trong khoảng 38 năm, thiên hạ yên trị. Sao mà phồn thịnh vậy!

— Lệnh Vọng[171]

Tuy nhiên, cũng sách Đại Việt sử ký toàn thư ở cuối bản kỷ về Thánh Tông có thuật lại lời tự phê bình của nhà vua:[193]

Trẫm có hai sai lầm, một là chính lệnh ban ra vi phạm đạo lý, hai là ngồi giữ ngôi không, nhiễu loạn việc trời. Tuy các chức trong ngoài khó lòng nêu hết được, nhưng hãy nói về những người nổi bật hơn cả. Đô đốc Lê Luyện như bù nhìn tượng đất, sao có thể gọi là hạng đội mũ tròn, đi hia vuông được. Thái sư Đinh Liệt, Thái phó Lê Niệm làm đế tam công, mà không thấy có việc gì là điều hòa âm dương, sửa việc nước, bàn đạo trời, cũng chưa từng tiến cử được một người quân tử, đuổi bỏ được một kẻ tiểu nhân, chẳng như câu chế giễu của người xưa "áo mặc da cừu mà nhởn nhơ thỏa thích" đó sao?

Đương thời, Lê Thánh Tông từng bị Thiếu bảo Ngự sử đài Đô ngự sử Trần Phong phê phán vì "đặt quan hiệu của nhà Minh mà làm trái thông chế của quốc triều". Lời phê bình này chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc nhà vua xử chết Trần Phong năm 1485.[11] Một viên quan khác, Quốc tử giám Tế tửu kiêm Văn minh điện Đại học sĩ Nguyễn Bá Ký từng chê trách Thánh Tông vì làm văn "không chú ý kinh, sử, lại chuộng lối học phù hoa, vô dụng". Trước lời phê phán này, nhà vua đã hồi đáp:[194]

"Trẫm vừa xem hết tờ sớ, ngươi bảo là trẫm không chú ý kinh, sử, lại chuộng lối học phù hoa, vô dụng, chỉ ngụ ý ở ngoài mây khói. Nếu ta ưa chuộng văn hoa, không lấy gốc kinh, sử, thì còn sách nào nữa? Ta tự xét mình, xét lời ngươi nói, thì trong bốn chữ "phù hoa vô dụng" kia, thực đã gồm cả lòng trung rồi, thế mà ta lại làm văn mà biện lại, thì ta thực có lỗi. Lúc ấy, ngươi đã kịp thời can ngăn, chẳng vì thế mà giữ ý".

Hà Nhậm Đại, sĩ phu đời Mạc làm quan đến chức Lễ bộ Thượng thư, có bài thơ vịnh Thánh Tông Thuần Hoàng đế, vừa khen vừa chê trách:[195]

Thánh Tông Thuần Hoàng đếNhật thướng thiên trung hoàng đạo khai,Đế vương sự nghiệp hiện hùng tài.Bình sinh học vấn chân cao mại,Nữ tử yên tri thị họa thai.

Dịch nghĩa:

Vầng dương lên giữa trời mở đường Hoàng đạo,Sự nghiệp đế vương biểu hiện tài năng hùng mạnh.Bình sinh học vấn thật là cao siêu,Nào hay đứa con gái gây nên cái mầm mống tai họa!

Dịch thơ

Giữa trời hoàng đạo chói vầng dương,Xuất hiện hùng tài bậc đế vương.Học vấn bình sinh cao rộng thế,Nào hay nhi nữ nghén tai ương!

Trong bộ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục biên soạn đời Nguyễn Dực Tông (Tự Đức, trị vì 18471883), sử quan Đại Nam có lời phê khi chép đoạn Thánh Tông giết Lê Lăng:[13]

Vua Thánh Tông còn như thế, có lẽ vì đạo đức chưa được tinh thuần chăng? Thế mà cứ sính văn chương, thích biện bác, thì có làm gì?

— Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục

Sử thần thời Nguyễn cũng chỉ trích việc Lê Thánh Tông xưng làm Tao đàn Nguyên soái, lập ra Tao Đàn nhị thập bát tú và đặt tên một tập thơ là Quỳnh Uyển cửu ca:[12]

Luôn luôn có hạn hán, nước to, đói dữ, mà đã nói như thế như thế...; lại còn xưng hô với nhau một cách khoe khoang, thật đáng khinh bỉ. Ông vua này không phải chỉ những đạo đức chưa được thuần hậu, độ lượng chưa được rộng rãi mà thôi đâu!

Sử gia thời Pháp thuộc Trần Trọng Kim thì đánh giá trong cuốn Việt Nam sử lược (1919) rằng:

Thánh Tông là một ông vua thông minh, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đãi lấy lòng thành. Ngài trị vì được 38 năm, sửa sang được nhiều việc chính trị, mở mang sự học hành, chỉnh đốn các việc vũ bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ cõi, khiến cho nước Nam... bấy giờ được văn minh thêm ra và lại lừng lẫy một phương, kể từ xưa đến nay chưa bao giờ cường thịnh như vậy.

— Trần Trọng Kim[9]

Sử gia Hoa Kỳ thế kỷ XXI Keith Weller Taylor nhận định trong sách A History of the Vietnamese (Lịch sử người Việt Nam):[196]

Được gọi là Hồng Đức Đế vì 26 năm cuối thời trị vì của ông được tính là giai đoạn Hồng Đức ("đức độ bao la"), ông được ca ngợi là vị vua lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Sĩ phu Nho gia ở các thời sau coi triều đại ông là một thời hoàng kim của một nền chính sự tốt đẹp. Thành tựu lớn nhất của ông là việc hợp nhất nguồn nhân lực và vật lực của đồng bằng sông Hồng và các trấn phía nam cũng như việc tổ chức các nguồn lực này để tối đa hóa sự thịnh vượng và mở rộng lãnh thổ về hướng nam và tây. Ông làm điều đó bằng cách khích lệ giáo dục và huy động một thế hệ quan lại luôn sẵn lòng đáp ứng những kêu gọi đạo lý. Thắng lợi quân sự [trước Chiêm, Lào, Bồn Man] không thể đạt được nếu không có mức độ hiệu quả chưa từng có tiền lệ của chính quyền dân sự mà ông kiến tạo, luôn cung cấp đầy đủ số quân lính và thóc gạo cần thiết...

Trong thế kỷ 15, các vua nhà Lê đã thực hiện một cuộc tái định hướng chính phủ và văn hóa, tạo nên những quy phạm trong đời sống dân chúng mà sẽ được tán dương cho đến tận thời hiện đại, nếu không phải lúc nào cũng bằng hành động thì chí ít cũng bằng lời nói. Tuy nhiên, đây là thành tựu mong manh của một người duy nhất có cá tính đặc biệt [chỉ Thánh Tông]. Những căng thẳng địa phương vẫn tồn đọng. Khi chính sự suy nhược, những căng thẳng này sẽ bùng nổ thành hàng loạt cuộc chiến giữa các tập đoàn thống trị đối lập kéo dài ba thế kỷ và [thời kỳ này] cũng gắn liền với sự bành trướng của dân nói tiếng Việt dọc theo biển và vào tận đồng bằng sông Cửu Long.

— K. W. Taylor